Dàn ý chi tiết cho bài Việt Bắc
Tổng hợp những bài viết hay nhất
Mở bài
– Dàn ý phân tích bài thơ việt bắc – Giới thiệu về tác giả: Tố Hữu là một trong những nhà hoạt động cách mạng, nhà thơ lớn của đất nước, thơ ông trưởng thành trong cách mạng. Ông từng bị thực dân Pháp bắt giam nhưng vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng. Về sau, ông trở thành nhà lãnh đạo tư tưởng, văn nghệ của Đảng và nhà nước, đồng thời cũng trở thành nhà thơ lớn của dân tộc.
– Giới thiệu tác phẩm Việt Bắc – Ông để lại cho thế hệ sau nhiều bài thơ có giá trị, một trong những tác phẩm ấy phải kể đến Việt Bắc. Tác phẩm được viết khi cơ quan đầu não của Đảng trở về Hà Nội. Bài thơ viết khi chia tay đồng bào Việt Bắc với tình cảm lưu luyến, gắn bó với con người mảnh đất này.
Thân bài
- Luận điểm 1: Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác và bố cục bài thơ
– Hoàn cảnh sáng tác: Việt Bắc được sáng tác trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là khi hiệp định Giơ ne vơ Đông dương được kí kết, hòa bình lập lại, miền bắc được giải phóng. Đất nước bắt đầu bước sang một trong mới, một giai đoạn mới của cách mạng và cơ quan trung ương của Đảng – chính phủ phải rời chiến khu việt bắc về Hà Nội. Trước cảnh chia tay lưu luyến, cảm xúc dạt dào ấy Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.
– Bố cục bài thơ: Bài thơ được viết với các phân đoạn là cảnh đầu chia tay lưu luyến giữa cán bộ và con người Việt Bắc, các khổ còn lại là lời người ra đi nhắc lại những kỉ niệm gắn bó cùng Việt Bắc.
- Luận điểm 2: Lời người ở lại
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
– 20 câu thơ đầu là lời người ở lại dành cho người về xuôi
– Tác giả sử dụng điệp trúc mình – ta cho thấy sự gắn bó, thân thiết như một gia đình khiến cuộc chia li càng trở nên quyến luyến. Cách xưng hô này làm ta nhớ đến điệu hát Giao duyên khiến cho câu thơ trở nên mềm mại, sâu lắng. Bởi vậy, nói thơ của Tố Hữu vừa có yếu tố chính trị vừa có yếu tố lãng mạn quả không sai.
– Ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đặt câu hỏi tu từ để càng khẳng định nỗi nhớ ngườ đi xa và buổi chia tay bịn rịn: “Mình về mình có nhớ ta? Toàn bộ bốn câu thơ đầu tiên đều là lời ướm hỏi, khơi gợi những kỉ niệm về mười năm năm mặn nồng, về thiên nhiên việt bắc nghĩa tình.
– 4 câu thơ tiếp theo là nỗi lòng lưu luyến của cả người đi và người ở qua từ ngữ “da diết” “bâng khuâng” “bồn chồn” . Tác giả không nói trực tiếp đâu là người về xuôi, đâu là người ở lại mà sử dụng hình ảnh “áo chàm” để giúp người đọc nhận biết và nghe gần gũi thân thương. Áo chàm chính là đồng bào Việt Bắc, cầm tay người về xuôi mà lưu luyến khôn nguôi.
(Nguồn: https://phantich.com.vn/dan-y-phan-tich-bai-tho-viet-bac.html)
Tổng hợp những bài viết hay nhất 2
DÀN Ý CHI TIẾT TÁC PHẨM: VIỆT BẮC (TỐ HỮU)
I. Hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
II. Nội dung văn bản. 1.Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
2. Phân tích văn bản.
2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng,lưu luyến giữa kẻ ở người đi.
- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình.
+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.
+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.
- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ ‘cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.
+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là câu trả lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.
+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Rất có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng của người cán bộ kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của người cán bộ là mỗi lần bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.
è khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.
2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.
- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung.
Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.
- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
2.3. Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.
Nhớ gì như nhớ người yêu
……
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.
- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.
- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi đèo
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa
=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.
2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Ta về mình có nhớ ta
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại
+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả
+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.
2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
a. Từ câu 53-> 74
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống TDP xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.
+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…
+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.
+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc.
~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.
~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…
+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.
+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
b. Từ câu 75- câu 83.
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
3. Đặc sắc nghệ thuật
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.
- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình
+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ)
+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc
4. Chủ đề
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đỗi với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung
(Nguồn: https://hocvanchihien.com/Vn/DAN-Y-CHI-TIET-TAC-PHAM-VIET-BAC-(TO-HUU)-News-2706)
Tổng hợp những bài viết hay nhất 3
Mở bài: Giới thiệu sơ lược về sự nghiệp văn chương của nhà thơ Tố Hữu và tác phẩm Việt Bắc
Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.
“Việt Bắc” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Tố Hữu.
II. Thân bài
– Khái quát chung
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi.
Bài thơ đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc.
Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
– Phân tích chi tiết
+ Mở đầu là lời của người ở:
Câu mở lời đầu tiên giống lời chia tay của những cặp tình nhân đầy ý nhị mà sâu sắc => mượn sắc màu tình yêu để thể hiện tình cách mạng.
“mình” mở đầu câu thơ, “ta” kết thúc câu thơ → sự xa cách, nhớ nhung.
Chữ “nhớ” được nhắc lại ba lần → dòng cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.
+ Tình cảm của người ra đi: được thể hiện qua những kỷ niệm về núi rừng Việt Bắc, con người Việt Bắc cùng những kỷ niệm kháng chiến.
=> Người đi muốn nhắn ngủ với người ở lại rằng dù cuộc sống mới có sung túc, đủ đầy thì tình cảm với những người dân nơi đây vẫn luôn còn mãi.
– Đánh giá chung
“Việt Bắc” là một điển hình của thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết hợp của chất trữ tình và chính trị.
Tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi.
Khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc là tấm lòng thủy chung son sắc.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của bài thơ
Dàn ý 2
Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và đặc điểm sáng tác của ông
– Giới thiệu khái quát về bài thơ Việt Bắc
2, Thân bài
a, Kết cấu bài thơ
– Sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta”
– Kết cấu đối đáp vốn quen thuộc trong ca dao, dân ca
=> Cuộc chia tay giữa nhân dân với trung ương Đảng, Chính phủ như cuộc chia tay của một đôi trai gái, đầy bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương.
b, Lời đối đáp thứ nhất (tám câu đầu)
– Lời của người ở lại: phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một câu hỏi, gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong quãng thời gian “mười lăm năm ấy”
– Lời của người ra đi: thể hiện niềm nhớ thương với hàng loạt từ thể hiện cảm xúc “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…
=> Khung cảnh bịn rịn, đầy luyến lưu.
c, Lời đối đáp hai (còn lại)
* Lời của người ở lại:
– Điệp từ “có nhớ”
– Gợi nhắc lại một cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm.
* Lời của người ra đi:
Lời đáp của người ra đi như một lời thế son sắt thủy chung – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:
– Nhớ thiên nhiên:
+ “trăng lên đầu núi”: ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, mênh mông.
+ “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan hóa, ấm áp mỗi buổi chiều.
+ những bản làng chìm trong màn sương trông thật huyền ảo với những ảnh lửa bập bùng trong đêm tối và cả những rừng nứa, bờ tre, suối Lê.
+ Bức tranh tứ bình:
Mùa đông: “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” – sự kết hợp màu sắc hài hòa.hài hòa
Mùa xuân: “ngày xuân mơ nở trắng rừng” – sắc trắng của hoa mơ như bung tỏa khắp mọi không gian của núi rừng .
Mùa hè: “ve kêu rừng phách đổ vàng”
Mùa thu với ánh trăng hòa bình
– Nhớ con người Việt Bắc:
+ người mẹ kháng chiến vất vả, lam lũ, cơ cực nhưng cần cù chịu khó
+ thật thủy chung, tình nghĩa, họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến
+ Những con người cần cù, luôn hiện lên trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, quê hương, đất nước: “người đan nón chuốt từng sợi giang”,“cô em gái hái măng một mình”,“tiếng hát ân tình thủy chung”
(Nguồn: https://giaoanbaigiang.com/dan-y-bai-viet-bac-570-25.html)

(Nguồn: https://hoctot.net.vn/phan-tich-bai-tho-viet-bac)